(y) Được giới thiệu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bởi nhà hóa học Henry Drysdale Dakin để điều trị vết thương nhiễm trùng. Còn được gọi là dung dịch Dakin. Nồng độ ban đầu được đề xuất bởi Dakin là 0,5% nhưng nồng độ thường được sử dụng trong thực tế là 5,25%.
– Walker (1936): người đầu tiên đề nghị sử dụng trong nội nha.
– Grossman (1941): được sử dụng như là một loại thuốc nội nha.
– Spangberg (1973): NaOCI 0.5% có hoạt tính diệt khuẩn tốt.
– Madden (1977): đã so sánh nồng độ NaOCl khác nhau và thấy rằng dung dịch 5% và 2,5% tốt hơn loại 0,5 để hòa tan mô.
– Foley và cộng sự (1983): đã so sánh thấy hiệu quả tương đương của NaOCI 0,5% và glyoxide.
<3 Tip lâm sàng
• Khi sử dụng phối hợp NaOCl và H2O2, luôn luôn sử dụng NaOCl sau cùng vì H2O2 có thể phản ứng với mảnh vụn tủy và máu sản sinh khí (oxy), điều này gây áp lực kín trong răng, điều này có thể gây đau nhiều.
• Sử dụng NaOCI là chất bơm rửa cuối cùng sau EDTA hoặc acid citric có thể gây xói mòn ngà nghiêm trọng trên thành ống tủy.
• Không giống NaOCI, CHX không gây bất kì xói mòn trên ngà khi sử dụng bơm rửa cuối cùng sau EDTA hoặc citric acid. Nên nó được khuyến nghị sử dụng khi kết thúc pha làm sạch hóa học để đạt được hiệu quả diệt khuẩn tối đa.
• EDTA hoặc acid citric không nên pha trộn với NaOCl bởi vì EDTA và acid citric phản ứng rất mạnh với NaOCl. Điều này ngay lập tức làm giảm Cl- trong dung dịch và làm mất tác dụng diệt khuẩn.